NHNN vừa yêu cầu các NHTM giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống 30%. Việc giám sát và quản lý maturity mismatch (MM) này khá hiếm trên thế giới, đơn giản vì hấp thu rủi ro MM chính là chức năng của hệ thống ngân hàng thương mại. Giới hạn tỷ lệ MM tối đa như vậy sẽ làm giảm lợi nhuận của hệ thống ngân hàng và làm méo mó thị trường tín dụng. Lợi nhuận giảm là điều tất yếu vì các NHTM sẽ phải gia tăng huy động tiền gửi có maturity dài hơn, tất nhiên phải trả lãi suất cao hơn. Nếu vẫn không thể huy động đủ số tiền gửi trung/dài hạn, NHTM sẽ buộc phải cho vay ngắn hạn và rollover các khoản vay này cho doanh nghiệp khi nó đáo hạn. Tất nhiên lãi suất cho vay ngắn hạn sẽ thấp hơn cho vay dài hạn. Kiểu gì profit margin của các NHTM cũng giảm.
Với thị trường tín dụng, khi tỷ lệ MM bị buộc phải giảm các khoản cho vay ngắn hạn sẽ tăng lên. Điều này có hai hậu quả: (i) khuyến khích các khoản vay ngắn hạn liên quan đến các hoạt động đầu cơ ngắn hạn (chứng khoán, địa ốc), và (ii) khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án ngắn hạn để tránh phải đi vay dài hạn. Những méo mó này chắc chắn không phải kết quả tối ưu cho nền kinh tế và sẽ không có lợi cho bất kỳ ai. Vậy tại sao NHNN lại muốn giảm tỷ lệ MM tối đa và nguyên nhân của chính sách này là gì?
Tôi đã một vài lần đề cập trên blog này rằng NHNN dường như không hoàn thành trách nhiệm LOLR (lender of last resort) của mình. Hơn thế nữa, NHNN có vẻ quá lạm dụng chức năng liquidity management để chống lạm phát. Maturity mismatch xét cho cùng là một rủi ro về liquidity. Nếu balance sheet của một NHTM lành mạnh thì ngân hàng trung ương luôn có thể thực hiện chức năng LOLR để giải quyết tất cả các vấn đề liquidity cho NHTM đó, bao gồm maturity mismatch. Trên thực tế, NHNN giống như nhiều central bank khác dùng required reserve ratio làm công cụ quản lý liquidity. Như vậy áp đặt thêm tỷ lệ MM tối đa là một secondary regulation, chưa chắc đã hiệu quả hơn required reserve nhưng chắc chắn tạo thêm gánh nặng cho các NHTM như đã nói ở trên.
Đã có thông tin cho rằng NHNN bắt đầu thắt chặt tăng trưởng tín dụng, nghĩa là thắt chặt chính sách tiền tệ. Gia tăng tỷ lệ MM tối đa có thể là một biện pháp theo hướng thắt chặt tiền tệ này (thay vì tăng required reserve ratio). Nếu kinh tế VN đang phục hồi tốt và kinh tế thế giới đã thực sự qua đáy, thắt chặt tiền tệ có thể là một biện pháp cần thiết để đề phòng lạm phát. Tuy nhiên nếu NHNN tin như vậy thì nên thuyết phục chính phủ chấm dứt các chính sách kích cầu trước đã, vì thực ra chính sách kích cầu của VN là monetary easing về bản chất. Thực thi hai chính sách chỏi nhau cùng lúc là không hợp lý, nhất là một bên sẽ gây khó khăn cho các NHTM, một bên tốn tiền ngân sách.
Cuối cùng, nếu NHNN thắt chặt tỷ lệ MM tối đa vì cho rằng balance sheet của các NHTM không lành mạnh thì đây cũng không phải biện pháp tối ưu. Nếu các NHTM có nguy cơ đổ vỡ vì thua lỗ (bad debt), NHNN nên siết chặt quản lý captial/asset ratio. Có thể rà soát lại balance sheet của từng NHTM và yêu cầu ngân hàng nào có tỷ lệ bad debt cao phải tăng capital. Nói chung capital buffer vẫn là biện pháp chống bank run và khủng hoảng tốt hơn các biện pháp quản lý liquidity. Tóm lại, thumb down cho Thông tư 15 vừa rồi của NHNN.
Update (24/08): TBKTSG có một bài của tác giả Tâm Dân "bênh" Thông tư 15 của NHNN. Tôi đồng ý với tác giả Tâm Dân rằng hệ thống tài chính VN cần phát triển thị trường vốn mạnh ra ngoài các NHTM. Nói chung các hoạt động investment banking là cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên không nên cho rằng investment banking sẽ làm giảm rủi ro của hệ thống tài chính, nhất là khi VN chưa có đủ infrastructure (personel, rules, regulators) cho lĩnh vực này.
Update (25/08): Còn một điểm nữa tôi chưa đề cập đến khi cho rằng NHNN đưa ra qui định này để chống lạm phát. Thông thường độ dốc của đường yield curve sẽ cho biết expectation của market vào lạm phát và phản ứng của central banks như thế nào. Ở VN thị trường bond chưa phát triển và cũng không có instruments đủ dài để có thể construc yield curve. Tuy nhiên việc hạn chế MM sẽ buộc banks phải tăng lãi suất huy động trung và dài hạn, tương đương với đường yield curve dốc lên. Đây là một cách để chống lạm phát trong trung/dài hạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét