Thứ Hai, 1 tháng 6, 2009

Boring profession


Paul Krugman cho rằng traditional banking là một boring profession. Greg Mankiw tuyên bố chính economics boring không kém. Lý do: "Unlike most people, who spend their time thinking about their children, local sports team, or favorite sitcom, economists have devoted much of their lives to thinking about such things as international trade and rent control."

Vậy là bên cạnh cái tên húy "dismal science", giờ kinh tế học còn bị coi là boring, ít nhất theo quan điểm của một nhà kinh tế hàng đầu. Nếu bạn chưa thấy kinh tế học boring thì đọc tiếp nhé.

Bài viết của Mankiw mà tôi trích dẫn ở trên cổ vũ cho việc đánh thuế vào xăng dầu và các loại năng lượng liên quan đến hydrocarbon (than, nhiệt điện...) để giảm bớt tiêu dùng các loại năng lượng này, gián tiếp giảm lượng khí thải CO2, nguyên nhân của hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Ý tưởng dùng thuế để giảm tiêu dùng những loại hàng hóa có negative externality bắt nguồn từ Arthur Pigou, một nhà kinh tế người Anh đầu thế kỷ 20. Loại thuế này được gọi là Pigovian tax có mục đích chính là can thiệp vào hành vi của consumer/producer trong một thị trường vì private costs/benefits không phản ánh đúng social costs/benefits. Do vậy đây là một corrective tax chứ không phải distortionary tax như các loại thuế khác. (Một ví dụ rất nổi tiếng của Pigovian tax là Chile đánh thuế vào capital flows để giảm các hoạt động đầu cơ trong thị trường tài chính nước này.)

Một biện pháp khác nhằm giảm lượng khí thải CO2 mà châu Âu đã thực hiện và Mỹ, Úc đang nghiên cứu triển khai là cap-and-trade. Nghĩa là áp đặt giới hạn (quota) khí thải cho từng doanh nghiệp đồng thời cho phép họ mua bán quota khí thải đó tùy vào nhu cầu của họ. Ý tưởng này bắt nguồn từ Ronald Coase và được Kyoto Protocol khuyến khích. Khác với Pigovian tax, cap-and-trade tạo ra một thị trường mới cho quota khí thải và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận đây là một đầu vào (input) cho sản phẩm của mình. Về mặt lý thuyết Pigovian tax và cap-and-trade tương đương nhau nếu thị trường hoàn hảo, nhưng trên thực tế hai chính sách này rất khác nhau.

Một lý do quan trọng giúp cho cap-and-trade được chấp nhận hơn là tác động chính trị của hai chính sách này rất khác nhau. Đối với Pigovian tax, chính quyền (trong trường hợp Mỹ là Quốc hội) là người phải giơ đầu chịu báng vì người dân chỉ đơn giản thấy đây là một loại thuế mới đánh vào họ. Trong khi đó cap-and-trade không đánh thuế trực tiếp vào người dân mà vào doanh nghiệp, do vậy các chính trị gia sẽ tránh bị mất phiếu nếu ủng hộ chính sách này.

Tuy nhiên, như Mankiw chỉ ra (và cả Krugman cũng đồng ý), cap-and-trade sẽ rất khó thành công nếu các nước đang phát triển, đặc biệt là China/India/Russia, không tham gia. Chính cái vế cap trong cap-and-trade là trở ngại chính của các cuộc đàm phán và phối hợp quốc tế. Các nước đang phát triển không chịu nhận một lương quota (per capita) nhỏ hơn so với các nước giàu với lập luận là các anh không thể được quota lớn hơn vì trong quá khứ các anh thải ra một lượng CO2 lớn hơn (và được hưởng lợi từ đó). Trong khi đó các nước giàu không chịu phân chia quota theo dân số vì như thế chắc chắn họ sẽ phải mua quota từ các nước đông dân, do đó sẽ là một hình thức income transfer sang các nước nghèo. Nếu phối hợp quốc tế không thành công thì nỗ lực cap-and-trade ở các nước giàu sẽ không/ít có tác dụng vì 60% khí thải có nguồn gốc từ China và các nước đang phát triển khác. Trong trường hợp Pigovian tax, các nước giàu có thể đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu từ các nước không áp dụng chính sách carbon tax này, do vậy các nước sẽ có incentives phối hợp với nhau hơn.

Ngoài ra, Mankiw cho rằng với Pigovian tax, ít nhất nhà nước sẽ có một nguồn thu mới bổ sung vào ngân sách. Nguồn thu này có thể dùng để giảm một số loại thuế khác, do đó sẽ giảm bớt gánh nặng của carbon tax cho người tiêu dùng. Trong khi đó, nếu cap không được aution (nhiều khả năng như vậy), thì ngoài việc gánh nặng của carbon tax sẽ chủ yếu do người tiêu dùng chịu, nhà nước còn phải chi thêm tiền (administrative costs) để giám sát cap-and-trade và xây dựng market for carbon quota. Pigovian tax đánh vào xăng dầu ngoài vấn đề khí thải còn có tác dụng ngăn ngừa các negative externalities khác như pollution, trafic congestion, accidents.

VN, một trong những nước sẽ chịu hậu quả nặng nề nhất của thay đổi khí hậu toàn cầu, sẽ có lúc phải đối mặt với lựa chọn giữa Pigovian tax và cap-and-trade, không chỉ đơn thuần vì vấn đề môi trường mà còn có thể để tránh bị tẩy chay trên thị trường quốc tế. Nhiều thuận lợi của Pigovian tax mà Mankiw phân tích có lẽ cũng đúng cho trường hợp của VN. Nhưng cá nhân tôi ủng hộ phương án Pigovian tax đơn giản vì tôi không muốn hệ thống hành chính của VN tiếp tục phình to ra nữa chỉ để giám sát carbon quota cho hàng chục nghìn doanh nghiệp.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NEER/REER Update

Tôi vừa update đồ thị NEER/REER cho VND đến tháng 7/2015. NEER là trade-weighted nominal exchange rate với Top-10 trading partners: CNY/USD/...